TRƯỚC TIÊN PHẢI HIỂU LỢI SUẤT TRÁI PHIẾU CHÍNH PHỦ (GOVERNMENT BOND YIELD) LÀ GÌ? ĐẶC ĐIỂM VÀ MỘT SỐ LƯU Ý.
Lợi suất trái phiếu chính phủ trong tiếng Anh là Government Bond Yield hay Sovereign Bond Yield.
Lợi suất trái phiếu chính phủ là lãi suất được trả cho việc sở hữu trái phiếu chính phủ (phát hành bằng nội tệ và ngoại tệ).
Nói cách khác, lợi tức trái phiếu chính phủ là tỉ lệ lãi suất mà chính phủ một quốc gia có thể vay. Trái phiếu chính phủ được chính phủ bán cho các nhà đầu tư để quyên tiền cho chi tiêu chính phủ (như tài trợ tài chính cho chiến tranh..)
ĐẶC ĐIỂM LỢI SUẤT TRÁI PHIẾU CHÍNH PHỦ:
Trái phiếu chính phủ, giống như các trái phiếu khác sẽ cung cấp một khoản lợi tức cho trái chủ và hoàn lại toàn bộ mệnh giá khi trái phiếu đáo hạn. Khoản lợi tức này được tính bằng lợi suất trái phiếu chính phủ.
Trái phiếu chính phủ là cách thức lấp đầy khoảng trống ngân sách được ưu tiên sử dụng bởi các chính phủ.
Nhiều loại trái phiếu chính phủ được coi là không có rủi ro như chứng khoán Kho bạc Mỹ, khi định giá các trái phiếu này nhà đầu tư không xem xét rủi ro tín dụng và các trái phiếu này cũng có lãi suất thấp hơn trái phiếu có rủi ro cao hơn.
Mức chênh lệch giữa lợi suất trái phiếu chính phủ và lợi suất trái phiếu doanh nghiệp được đánh giá cao của một quốc gia thường là thước đo phần bù rủi ro cho các trái phiếu doanh nghiệp.
Xem xét tất cả các yếu tố này khi xem xét đầu tư vào trái phiếu chính phủ hoặc trái phiếu của một doanh nghiệp trong quốc gia này là rất quan trọng.
Về mặt lí thuyết, trái phiếu chính phủ bằng tiền nội địa được coi là không có rủi ro vì chúng được phát hành bởi đồng tiền của chính phủ phát hành và chính phủ đó luôn có thể in thêm tiền để thanh toán trái phiếu khi đáo hạn. Tuy nhiên, nếu điều này xảy ra trái phiếu sẽ mất giá trị và lợi suất trái phiếu chính phủ sẽ giảm đáng kể.
Các yếu tố ảnh hưởng đến lợi suất trái phiếu chính phủ bao gồm uy tín tín dụng của chính phủ phát hành, giá trị của đồng tiền phát hành trên thị trường hối đoái và sự ổn định của chính phủ phát hành.
Năm 2008, lãi suất trái phiếu Mỹ giảm do Mỹ là nước gây ra khủng hoảng tài chính.
Nhà đầu tư cần nhớ rằng không có công cụ nào là phi rủi ro trong lĩnh vực đầu tư ngay cả trái phiếu chính phủ.
MỘT SỐ LƯU Ý
Lợi suất trái phiếu chính phủ thường dựa trên sự ổn định tài chính của chính phủ phát hành và khả năng trả nợ của họ.
Có nhiều tổ chức xếp hạng tín dụng quốc tế thường đánh giá mức độ tín nhiệm của trái phiếu chính phủ và lợi suất trái phiếu chính phủ như Moody's, Standard & Poor's và Fitch.
Các bảng xếp hạng này dựa trên các yếu tố sau:
- Tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP)
- Lịch sử vỡ nợ của chính phủ
- Thu nhập bình quân đầu người trong cả nước
- Tỉ lệ lạm phát
- Các khoản nợ bên ngoài của chính phủ
- Mức độ phát triển kinh tế
Khi một chính phủ đang gặp bất ổn chính trị hay bị các yếu tố bên ngoài gây ra bất ổn, rủi ro chính phủ đó vỡ nợ và không thể thanh toán các khoản nợ của mình là rất cao.
Nhiều cuộc khủng hoảng nợ công đã xảy ra trong quá khứ, khi đó thị trường sẽ bắt đầu định giá giá trái phiếu bằng phần bù tín dụng dẫn đến chi phí vay mới cho các chính phủ phát hành nợ tăng lên.
Ngay cả khi không có rủi ro tín dụng, lợi suất trái phiếu chính phủ vẫn bị ảnh hưởng bởi rủi ro tỷ giá hối đoái và lãi suất trong nước.
Điều này sẽ càng đúng nếu các chính phủ đi vay bằng ngoại tệ (trái phiếu quốc tế chính phủ), ví dụ như một quốc gia ở Nam Mỹ vay bằng đồng đô la khi đồng đồng nội tệ mất giá có thể khiến việc trả nợ khó khăn hơn.
Phát hành trái phiếu quốc tế chính phủ thường là lựa chọn được thực hiện bởi các quốc gia có tiền tệ không mạnh.
Lợi suất trái phiếu chính phủ Mỹ đã tăng khá mạnh thời gian qua, tác động không nhỏ đến thị trường tài chính, kinh tế toàn cầu. Với Việt Nam, ảnh hưởng là khó tránh, song không lớn.
Kỳ vọng nền kinh tế phục hồi, quay lại đà tăng trưởng đã đẩy lợi suất trái phiếu Mỹ tăng mạnh từ đáy.
Để xem xét ảnh hưởng của lợi suất trái phiếu chính phủ (TPCP) Mỹ ảnh hưởng như thế nào đến Việt Nam cũng như thế giới, trước hết, cần xem xét ý nghĩa của đường cong lợi suất TPCP và diễn biến của nó thời gian qua.
Về mặt lý thuyết, lợi suất TPCP có mối quan hệ nghịch chiều với giá của nó, tức là, khi lợi suất trái phiếu tăng, giá sẽ giảm vì khi đó người mua trái phiếu phải trả lãi suất cao hơn, khiến trái phiếu đó kém hấp dẫn, nên giá trái phiếu giảm, và ngược lại.
Đường cong lợi suất TPCP đi lên (lợi suất tăng khi thời hạn dài lên) thể hiện kỳ vọng của nhà đầu tư về một nền kinh tế sẽ đi lên, phục hồi tốt hơn, như hiện nay đối với thị trường Mỹ, và ngược lại.
Biểu đồ 1 cho thấy, lợi suất TPCP Mỹ (kỳ hạn 10 năm) xuống đáy hồi tháng 3/2020 do Covid-19, sau đó đi ngang đến tháng 8/2020, rồi bắt đầu đi lên từ đó đến nay (tăng 1 điểm phần trăm).
Biểu đồ 2 cho thấy, đường cong lợi suất TPCP Mỹ đi lên và ngày càng dốc hơn, chứng tỏ kỳ vọng nền kinh tế Mỹ sẽ phục hồi mạnh trong năm nay (theo dự báo của Moody’s, GDP của Mỹ sẽ tăng trưởng 6% trong năm 2021). Điều này cũng đồng nghĩa với lạm phát kỳ vọng tăng và lãi suất sẽ tăng (cũng là để kiểm soát lạm phát).
CÓ 3 NGUYÊN NHÂN CHÍNH KHIẾN LỢI SUẤT TPCP MỸ TĂNG MẠNH.
Thứ nhất, việc duy trì chính sách tiền tệ nới lỏng cùng với việc Quốc hội Mỹ mới đây thông qua gói kích thích tài khóa 1.900 tỷ USD đã khiến kỳ vọng lạm phát tăng lên (cùng với tác động của giá cả hàng hóa toàn cầu đang tăng).
Thứ hai, việc nới lỏng chính sách tiền tệ, tài khóa và triển vọng tích cực của vắc-xin phòng dịch Covid-19 cũng khiến kỳ vọng về sự phục hồi mạnh của nền kinh tế Mỹ trong thời gian tới. Điều này tạo ra tâm lý ưa thích rủi ro hơn (risk-on) đối với các nhà đầu tư và TPCP Mỹ - vốn được coi là tài sản trú ẩn an toàn - sẽ được bán ra với khối lượng lớn, dẫn đến giá giảm và lợi suất tăng lên.
Thứ ba, từ đầu năm 2020 đến nay, giá chứng khoán Mỹ tăng khá mạnh, thậm chí tăng hơi nóng, nên cũng có điều chỉnh về trạng thái cân bằng hơn. Tất nhiên, đây chỉ là nguyên nhân phụ.
Như vậy, có thể thấy, lợi suất TPCP tăng lên, một mặt thể hiện lạm phát kỳ vọng tăng, nhưng cũng cho thấy kỳ vọng về kinh tế Mỹ tăng trưởng cao hơn.
XUẤT KHẨU HƯỞNG LỢI, VỐN SẼ BỚT RẺ HƠN
Việc lợi suất TPCP Mỹ tăng sẽ có ít nhất 4 tác động đối với nền kinh tế Việt Nam, song tác động không quá lớn.
Một là, triển vọng kinh tế Mỹ tác động đến kinh tế vĩ mô của Việt Nam qua các kênh thương mại và đầu tư. Triển vọng kinh tế Mỹ phục hồi mạnh sẽ giúp đà phục hồi của kinh tế toàn cầu, qua đó tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu của Việt Nam cũng như đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam do tổng cầu tăng, đặc biệt khi Mỹ là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam.
Hai là, lạm phát kỳ vọng tăng và kinh tế phục hồi sẽ khiến ngân hàng trung ương các nước (trong đó có Cục Dự trữ Liên bang Mỹ - Fed) đi đến quyết định giảm cung tiền (giảm các gói nới lỏng định lượng và các gói hỗ trợ) và sau đó là tăng lãi suất cơ bản. Việc này sẽ khiến mặt bằng lãi suất tăng, chi phí vay vốn và trả nợ nước ngoài tăng. Đồng thời, việc các nước giảm nới lỏng định lượng sẽ làm giảm dòng tiền rẻ, tác động tiêu cực đến thị trường chứng khoán (như đã từng xảy ra năm 2013, 2015).
Ba là, lãi suất USD tăng cùng với đà phục hồi tích cực của kinh tế Mỹ sẽ khiến USD tăng giá trở lại, từ đó tác động nhất định đến tỷ giá USD/VND. Tuy nhiên, tác động đến tỷ giá chỉ ở mức độ do Việt Nam đã điều hành cơ chế tỷ giá trung tâm 5 năm nay và quan hệ cung - cầu ngoại tệ khá cân bằng.
Bốn là, khi kinh tế Mỹ phục hồi tốt và lãi suất tại Mỹ tăng, dòng vốn đầu tư có thể dịch chuyển về Mỹ, nhưng không nhiều lắm, bởi điều này còn phụ thuộc nhiều vào tình hình kiểm soát dịch bệnh và các chính sách đầu tư, nguồn nhân lực của Mỹ.
Mặc dù có ảnh hưởng, song như đã nói ở trên, mức độ ảnh hưởng không nhiều. Nguyên nhân là xu hướng này phần nào đã được phản ánh trong giá chứng khoán thời gian qua và đang có điều chỉnh.
Bên cạnh đó, Fed sẽ chỉ giảm nới lỏng định lượng, rồi sau đó mới tăng lãi suất dần dần, có lộ trình do khả năng phục hồi kinh tế còn mong manh vì dịch bệnh vẫn khá phức tạp. Bên cạnh đó, lạm phát của Mỹ vẫn còn khá xa mức 2% (CPI của Mỹ khoảng 1,2%, lạm phát cơ bản khoảng 1,4% cuối năm 2020 và dự báo khoảng 2% vào cuối năm 2021).
Tuy nhiên, trong trung và dài hạn, vẫn cần theo dõi lạm phát cũng như việc thực thi các chính sách tiền tệ, tài khóa của Mỹ, để đánh giá kịp thời các tác động và có động thái phù hợp.